Phó thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ phát triển hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại, dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế…

Về năng lực, các cảng biển đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa, giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước và hàng trung chuyển, quá cảnh cho các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vận tải hành khách nội địa và quốc tế.

Hệ thống cảng biển đáp ứng thông qua lượng hàng hóa 1.140 – 1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38 đến 47 triệu TEU); hành khách 10,1 – 10,3 triệu lượt khách.

Về kết cấu hạ tầng, quy hoạch ưu tiên phát triển các khu bến cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép (Bà Rịa-Vũng Tàu); nghiên cứu cơ chế chính sách phù hợp phát triển từng bước cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa) để khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý.

Quy hoạch định hướng phát triển bến cảng Trần Đề (Sóc Trăng) phục vụ Đồng bằng sông Cửu Long để có thể triển khai đầu tư khi có đủ điều kiện; các cảng biển quy mô lớn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của cả nước hoặc liên vùng; các bến cảng khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch; các bến cảng quy mô lớn phục vụ các khu kinh tế, khu công nghiệp; các bến cảng tại các huyện đảo phục vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc phòng-an ninh và chủ quyền biển đảo.

Quyết định nêu rõ, hệ thống cảng biển Việt Nam gồm 5 nhóm, trong đó nhóm 1 gồm 5 cảng biển: cảng biển Hải Phòng, cảng biển Quảng Ninh, cảng biển Thái Bình, cảng biển Nam Định và cảng biển Ninh Bình.

Đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 1 là từ 305 triệu tấn đến 367 triệu tấn (hàng container 11 -15  triệu TEU); hành khách 162.000 – 164.000 lượt.

Tầm nhìn đến 2050, nhóm cảng biển số 1 đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 5,0-5,3%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng 1,5-1,6%/năm;

Hoàn thành đầu tư khu bến cảng Lạch Huyện, Cái Lân và di dời các bến cảng trên sông Cấm phù hợp với quy hoạch phát triển thành phố Hải Phòng; đầu tư phát triển các bến cảng tại khu bến Nam Đồ Sơn – Văn Úc, Cẩm Phả, Hải Hà.

Nhóm 2 gồm 6 cảng biển: cảng biển Thanh Hóa, cảng biển Nghệ An, cảng biển Hà Tĩnh, cảng biển Quảng Bình, cảng biển Quảng Trị và cảng biển Thừa Thiên Huế.

Đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 2 từ 172 triệu tấn đến 255 triệu tấn (hàng container 0,6-1 triệu TEU); hành khách 202.000 – 204.000 lượt khách.

Tầm nhìn đến 2050, nhóm cảng biển số 2 đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 3,6-4,5%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng 0,4-0,5%/năm; hoàn thiện đầu tư, phát triển cụm cảng Nghi Sơn – Đông Hồi, Vũng Áng và Sơn Dương – Hòn La.

Nhóm 3 gồm 8 cảng biển: cảng biển Đà Nẵng (gồm khu vực huyện đảo Hoàng Sa), cảng biển Quảng Nam, cảng biển Quảng Ngãi, cảng biển Bình Định, cảng biển Phú Yên, cảng biển Khánh Hòa (gồm khu vực huyện đảo Trường Sa), cảng biển Ninh Thuận và cảng biển Bình Thuận.

Đến năm 2030, hàng hóa thông qua từ 138 triệu tấn đến 181 triệu tấn (hàng container đạt từ 1,8-2,5 triệu TEU); hành khách 1,9-2,0 triệu lượt khách.

Tầm nhìn đến 2050, nhóm cảng biển số 3 đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 4,5-5,5 %/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng 1,7-1,8%/năm; hoàn thành đầu tư toàn bộ khu bến cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng) và hình thành cảng phục vụ hàng hóa trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa).

Nhóm 4 gồm 5 cảng biển: cảng biển TP. HCM, cảng biển Đồng Nai, cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu, cảng biển Bình Dương và cảng biển Long An.

Đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 4 từ 461-540 triệu tấn (hàng container 23-28 triệu TEU); hành khách 1,7-1,8 triệu lượt khách.

Tầm nhìn đến 2050, nhóm cảng biển số 4 đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 3,5-3,8 %/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng 0,9-1,0 %/năm;

Hoàn thành đầu tư các bến cảng Cái Mép Hạ, nghiên cứu hình thành các khu bến cảng mới tại Cần Giờ (trên sông Gò Gia), hoàn thành công tác di dời các bến cảng trên sông Sài Gòn và tiếp tục nghiên cứu di dời các khu bến khác phù hợp với phát triển không gian đô thị Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhóm 5 gồm 12 cảng biển: cảng biển Cần Thơ, cảng biển Đồng Tháp, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Bến Tre, cảng biển An Giang, cảng biển Hậu Giang, cảng biển Sóc Trăng, cảng biển Trà Vinh, cảng biển Cà Mau, cảng biển Bạc Liêu và cảng biển Kiên Giang.

Đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 5 từ 64-80 triệu tấn (hàng container từ 0,6-0,8 triệu TEU); hành khách 6,1-6,2 triệu lượt khách.

Tầm nhìn đến 2050, nhóm cảng biển số 5 đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 5,5-6,1%; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng 1,1-1,25%; hình thành cảng cửa ngõ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo quy mô, chức năng, hệ thống cảng biển Việt Nam có 3 loại. Trong đó, cảng biển đặc biệt là cảng biển Hải Phòng và cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu.

Cảng biển loại I (15 cảng biển): cảng biển Quảng Ninh, cảng biển Thanh Hóa, cảng biển Nghệ An, cảng biển Hà Tĩnh, cảng biển Thừa Thiên Huế, cảng biển Đà Nẵng, cảng biển Quảng Nam, cảng biển Quảng Ngãi, cảng biển Bình Định, cảng biển Khánh Hòa, cảng biển TP. HCM, cảng biển Đồng Nai, cảng biển Cần Thơ, cảng biển Long An, cảng biển Trà Vinh. Trong đó, các cảng biển Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt.

Cảng biển loại II (6 cảng biển): cảng biển Quảng Bình, cảng biển Quảng Trị, cảng biển Ninh Thuận, cảng biển Bình Thuận, cảng biển Hậu Giang, cảng biển Đồng Tháp.

Cảng biển loại III (13 cảng biển): cảng biển Thái Bình, cảng biển Nam Định, cảng biển Ninh Bình, cảng biển Phú Yên, cảng biển Bình Dương, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Bến Tre, cảng biển Sóc Trăng, cảng biển An Giang, cảng biển Kiên Giang, cảng biển Bạc Liêu, cảng biển Cà Mau. Trong đó, cảng biển Sóc Trăng quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt.

Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng 313.000 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa), được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.

Nguồn dẫn: Chí Bình; Tạp chí Đầu tư Tài chính

Link bài gốc: https://vietnamfinance.vn/cang-bien-thanh-hoa-da-nang-khanh-hoa-soc-trang-tiem-nang-thanh-cang-dac-biet-20180504224259055.htm